Cách đây 34 năm, ngày 10/10/1986 Viện Thuốc lá được thành lập theo Quyết định số 240/LHTL - TC.QĐ của Liên hiệp Thuốc lá Việt Nam với tên gọi là Phân Viện nghiên cứu Thuốc lá Hà Nội, tiền thân là Phòng nghiên cứu Trung tâm. Ngày 14/3/1989 Liên hiệp Thuốc lá Việt Nam ban hành Quyết định số 41/LHTL-TC về việc: Đổi tên Phân Viện nghiên cứu Thuốc lá Hà Nội thành Viện nghiên cứu Thuốc lá Hà Nội. Ngày 31/10/1992 Bộ Công nghiệp nhẹ ban hành Quyết định số 1011/CNn - TCLĐ về việc: Hợp nhất Viện nghiên cứu Thuốc lá TP. Hồ Chí Minh và Viện nghiên cứu Thuốc lá Hà Nội thành Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước về sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ công lập, đồng thời để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và định hướng phát triển trong tương lai, Viện đã xây dựng đề án chuyển đổi tổ chức hoạt động trình các cấp có thẩm quyền, ngày 05/9/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 206/2006/QĐ - TTg về việc: Thí điểm chuyển Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá thành doanh nghiệp khoa học công nghệ, hoạt động theo loại hình công ty TNHH một thành viên. Theo đó, ngày 10/11/2006 Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam ban hành Quyết định số 407/QĐ - TLVN về việc: Phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá.
Căn cứ Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam ban hành Quyết định số 138/QĐ - TLVN ngày 15/3/2016, phê duyệt Điều lệ Tổ chức và hoạt động của Viện và Công ty TNHH MTV Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá được đổi tên thành Công ty TNHH một thành viên Viện Thuốc lá, tên viết tắt là Viện Thuốc lá.
Hiện nay, Viện Thuốc lá là doanh nghiệp Khoa học và công nghệ hoạt động theo loại hình công ty TNHH một thành viên do VINATABA nắm giữ 100% vốn điều lệ, được tổ chức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ của Viện Thuốc lá hiện nay là: Nghiên cứu khoa học và công nghệ trong lĩnh vực thuốc lá; sản xuất thử nghiệm trên cơ sở những kết quả nghiên cứu; đầu tư trồng và kinh doanh nguyên liệu thuốc lá; thực hiện các dịch vụ khoa học công nghệ, phân tích kiểm định chất lượng thuốc lá nguyên liệu, thuốc lá điếu, hương phụ liệu phục vụ các đơn vị trong và ngoài ngành Thuốc lá; sản xuất phân bón hỗn hợp chuyên dùng cho cây thuốc lá và sản xuất hương liệu,...
Ông Nguyễn Văn Vân – Phó Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Viện Thuốc lá báo cáo tại Lễ kỷ niệm
Báo cáo tại Lễ kỷ niệm, Ông Nguyễn Văn Vân – Phó Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Viện Thuốc lá cho biết: Nói đến quá trình phát triển của Viện Thuốc lá trong 34 năm qua, có thể chia thành 2 giai đoạn lớn:
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2005: Giai đoạn trưởng thành từ gian khó
Khi mới thành lập năm 1986 với cơ sở vật chất trang thiết bị vô cùng thiếu thốn chỉ với 4 phòng làm việc, mỗi phòng có diện tích 24 m2 tại tầng 2, nhà F6 Khu tập thể Thuốc lá Thăng Long và nhân sự có trên 10 cán bộ tâm huyết với nghề. Đến năm 1988, để đáp ứng cho yêu cầu phát triển, được sự tạo điều kiện và hỗ trợ của cấp trên cùng sự tiết kiệm, chắt chiu, thắt lưng buộc bụng của toàn thể CBCNV, Viện đã mua sắm được cơ sở nhà đất và chuyển trụ sở về làm việc tại địa chỉ 235 đường Nguyễn Trãi trên diện tích khu đất gần 1.200 m2 với một dãy nhà 2 tầng và một dãy nhà cấp 4 làm văn phòng làm việc.
Trong giai đoạn từ năm 1992 đến 2005 ngành Thuốc lá VN đã có nhiều thay đổi và phát triển mạnh mẽ. Theo đó, Bộ Công nghiệp Nhẹ (nay là Bộ Công Thương) và Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho Viện để phục vụ cho công tác nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất. Trong giai đoạn này, Viện đã được đầu tư một số trang thiết bị hiện đại như máy hút thuốc lá, hệ thống máy sắc ký khí, hệ thống phân tích xác định đạm, máy phân tích quang phổ UV/VIS, máy xác định Clo,…đạt tiêu chuẩn ISO 17025. Viện được Bộ Y tế chỉ định là đơn vị được quyền kiểm tra chất lượng thuốc lá điếu của toàn ngành TLVN.
Năm 1998, Viện đã xây dựng được khu nhà ba tầng tương đối khang trang làm Trụ sở làm việc. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện cũng đã không ngừng được bổ sung về số lượng, trình độ, năng lực chuyên môn được nâng cao.
Đi lên từ gian khó, sau 20 năm xây dựng và trưởng thành, Viện Thuốc lá đã có nhiều hoạt động nghiên cứu khoa học với các đề tài, dự án, chuyển giao công nghệ và tư vấn cho các địa phương vùng trồng nguyên liệu và các đơn vị trong ngành thuốc lá.
Năm 1990, Viện đã phối hợp với Nhà máy Thuốc lá Thăng Long khảo nghiệm một số giống thuốc lá nhập nội từ Mỹ và Zimbabwe, Sau quá trình khảo nghiệm Viện thuốc lá đã lựa chọn được 2 giống thuốc lá C176 và K326 phù hợp với các vùng trồng thuốc lá ở Việt Nam cho năng suất cao, chất lượng tốt nên đã được Bộ NN&PTNT đã công nhận là giống quốc gia.
Giai đoạn từ năm 1996 đến 2005, Viện Thuốc lá đã triển khai, thực hiện 03 đề tài cấp Nhà nước, 79 đề tài cấp Bộ và 165 đề tài cấp Tổng công ty, một số kết quả nghiên cứu đã được chuyển giao vào thực tế sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả cho ngành thuốc lá Việt Nam.
Năm 2004 và 2005, Viện đã được Bộ NN&PTNT công nhận 04 giống thuốc lá gồm C7-1, C9-1, KY149 và A7 là các giống thuốc lá mới chính thức do Viện chọn tạo và đây là lần đầu tiên Việt Nam tự lai tạo được các giống thuốc lá mới. Các giống này có khả năng thích nghi cao, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và đặc biệt cho năng suất, chất lượng cao hơn các giống trồng đại trà tại các vùng nguyên liệu như tỉnh Cao Bằng, Tây Ninh, Gia Lai,… hàng năm đã cung cấp trên 2.000 tấn nguyên liệu thuốc lá giống mới cho các nhà máy thuốc lá điếu.
Cùng với công tác lai tạo giống mới, Viện là đã áp dụng lưu giữ thành công các nguồn gen thuốc lá bằng 2 phương pháp song song đó là: Bảo quản hạt trung hạt (nhiệt độ thấp) và phương pháp lưu giữ cây Invitro đối với trên 100 giống thuốc lá thuộc các chủng loại: Vàng sấy, Burley, Oriental, Nâu phơi,…để cung cấp nguồn giống cây đầu dòng cho sản xuất hạt giống thuốc lá nguyên chủng và cung cấp nguồn vật liệu khở đầu cho công tác lai tạo giống thuốc lá mới.
Từ nguồn giống mới được lai tạo, hàng năm Viện đã trực tiếp sản xuất và cung cấp trên 200 kg giống thuốc lá chất lượng cao cho các đơn vị sản xuất nguyên liệu với giá thành chỉ bằng 1/10 so với giá nhập ngoại, tiết kiệm khoảng 200.000 USD/năm. Dồng thời, Viện Thuốc lá đã cử các cán bộ kỹ thuật lăn lộn với đồng ruộng, cùng ăn ở, cùng làm việc với bà con nông dân để vận động và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Bên cạnh đó, Viện đã nghiên cứu thiết kế nhiều mô hình lò sấy thuốc lá phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sấy thuốc lá. Các kết quả nghiên cứu được bà con nông dân hồ hởi đón nhận.
Trong lĩnh vực Công nghệ, đã nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm và cung cấp hàng chục tấn hương liệu có nguồn gốc thảo dược cho sản xuất thuốc lá điếu, đồng thời xuất khẩu sang các thị trường ASEAN và EU; nghiên cứu, phối chế ứng dụng sản xuất một số mác thuốc lá điếu chất lượng cao như NC, Capital, Palace, Pacpo, … cho các nhà máy thuốc lá điếu góp phần cạnh tranh với thuốc lá điếu nhập ngoại; Ứng dụng công nghệ tin học xây dựng phần mềm “Chương trình phối chế thuốc lá điếu” được Hội đồng KHKT TCT TLVN thông qua và đưa vào áp dụng tại các nhà máy thuốc lá điếu để thiết kế kiểu mẫu nhãn và giải quyết các bài toán phối chế mác thuốc lá nhằm tạo sản phẩm thuốc lá điếu có chất lượng ổn định. Kết quả đã được giới thiệu tại Hội nghị Thuốc lá thế giới (CORESTA) tổ chức tại KYOTO (Nhật Bản) được nhiều nước quan tâm và đặt vấn đề mua phần mầm phối chế; Nghiên cứu sử dụng nguyên phụ liệu để tạo ra các mác thuốc lá điếu có hàm lượng Tar và nicotin thấp bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng.
Giai đoạn 2006 đến nay: Đột phá và phát triển
Năm 2006, được coi là bước ngoặt của Viện Thuốc lá, ngày 05/9/2006 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 206/2006/QĐ - TTg về việc: Thí điểm chuyển Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá thành doanh nghiệp khoa học công nghệ, hoạt động theo loại hình công ty TNHH một thành viên. Theo đó, Viện Thuốc lá được tự chủ trong triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học và sản xuất kinh doanh; tự chủ trong công tác tổ chức, tài chính, nhân lực và đào tạo hợp tác quốc tế.
Hoạt động theo mô hình mới, mặc dù gặp khó khăn vướng mắc song Viện đã thích ứng nhanh với cơ chế quản lý mới: sắp xếp lại tổ chức theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, phát huy nội lực nhằm phát huy những thế mạnh hiện có, công tác quản lý khoa học công nghệ có bước cải tiến so với những năm trước nên các đề tài dự án do Viện chủ trì thực hiện được triển khai thuận lợi và đúng tiến độ theo thuyết minh đề cương, nhiều kết quả nghiên cứu đã được kịp thời ứng dụng vào thực tế sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Công tác lai tạo giống thuốc lá đã tạo ra dấu ấn mới khi lần đầu tiên tại Việt Nam đã lai tạo thành công giống thuốc lá lai để phục vụ SX thuốc lá Nguyên liệu, và tạo được dòng thuốc lá bất dục đực. Trên cơ sở đó Viện đã lai tạo và chọn lọc được một số giống mới như giống VTL5H, GL2, VTL81, BS2, TL16, GL7 là những giống có năng suất cao vượt các giống thuốc lá cũ từ 10-15%, khả năng kháng bệnh đối với các bệnh phổ biến như bệnh khảm lá do Virus TMV, bệnh đen thân và bệnh héo rũ vi khuẩn. Các giống thuốc lá do Viện sản xuất và lai tạo được bà con nông dân tin tưởng sử dụng dần thay thế các giống thuốc lá cũ tại các vùng trồng thuốc lá. Năm 2020, giống thuốc lá của Viện cung cấp đã chiếm tỷ trọng trên 60% tổng lượng hạt giống tiêu thụ của cả nước.
Từ quá trình nghiên cứu chế độ dinh dưỡng thích hợp, Viện đã sản xuất được loại phân bón phù hợp chuyên dùng cho cây thuốc lá không những cải thiện chất lượng nguyên liệu thuốc lá mà còn có thể nâng cao năng suất nguyên liệu thuốc lá vàng sấy lên khoảng 10%. Hàng năm, Viện sản xuất và cung cấp trên 1.000 tấn phân bón chuyên dùng cho các vùng trồng nguyên liệu tại phía Bắc.
Đặc biệt năm 2018, Viện Thuốc lá đã tiến hành nghiên cứu thành công mô hình lò sấy thuốc lá mới theo nguyên lý thoát ẩm qua đường ống khói khi đưa vào sử dụng đã tiết kiệm gần 40% lượng nhiên liệu tiêu hao; tỷ lệ nguyên liệu cấp 1+2 tăng hơn 24% so với lò sấy cũ. Hiện nay, đã có gần 1.000 lò sấy thuốc lá mới được chuyển giao cho các vùng trồng nguyên liệu phía Bắc đã góp phần tiết kiệm hơn 1.000 tấn than/năm, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nguyên liệu thuốc lá và góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phòng chống biến đổi khí hậu. Dự báo số lượng lò sấy thuốc lá mới sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới.
Trong giai đoạn 2006-2020, Viện Thuốc lá đã được giao chủ trì xây dựng hàng chục tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia đưa vào áp dụng trong quá trình sản xuất và quản lý các sản phẩm trong ngành thuốc lá. Là đơn vị uy tín trong lĩnh vực kiểm định và giám định trong ngành, hàng năm Viện Thuốc lá đã tiến hành thực hiện kiểm định giám định hàng nghìn mẫu sản phẩm cho các đơn vị sản xuất nguyên liệu, đơn vị sản xuất thuốc lá điếu và các cơ quan quản lý nhà nước góp phần quan trọng trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm và giúp các cơ quan quản lý nhà nước trong việc chống buôn lậu thuốc lá, thuốc lá giả.
Sau 15 năm hoạt động theo mô hình Công ty TNHH MTV gắn kết quả nghiên cứu với sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động SXKD của Viện đã có sự tăng trưởng đáng ghi nhận. Số lượng cán bộ công nhân viên của Viện hiện có trên 100 người, trong đó có nhiều cán bộ có trình độ Tiến sỹ, Thạc sỹ là các chuyên gia đầu ngành trong một số lĩnh vực thuốc lá; Hiện nay, Viện có 01 Trụ sở chính tại Hà Nội với 07 Phòng chức năng và 03 Chi nhánh tại Cao Bằng, Ba Vì và Bắc Giang.
Doanh thu năm 2020 ước đạt 230 tỷ gấp 3,5 lần so với năm 2005, lợi nhuận ước đạt 4,8 tỷ đồng trong khi đó lợi nhuận năm 2005 là không đáng kể, đời sống của người lao động không ngừng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, thu nhập bình quân người lao động ước đạt 13 triệu đồng/người/tháng gấp gần 6 lần so với năm 2005.
Kết quả từ những thành quả trên khẳng định Viện đã từng bước phát triển vững chắc và thành công với loại hình doanh nghiệp mới, qua đó mở ra một tương lai triển vọng cho doanh nghiệp hoạt động khoa học công nghệ gắn với sản xuất kinh doanh. Với những nỗ lực đóng góp hiệu quả cho ngành Thuốc lá, Viện đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: Huân chương lao động hạng Nhất, Huân chương lao động hạng 2, Huân chương lao động hạng 3, nhiều Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bằng khen của các Bộ Công Thương, Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Bằng khen của UBND tỉnh Cao Bằng về thành tích trong công tác XĐGN và xây dựng nông thôn mới.
Ông Hồ Lê Nghĩa - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam phát biểu chúc mừng tại Lễ Kỷ niệm
Phát biểu tại buổi lễ, Ông Hồ Lê Nghĩa - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam đánh giá cao những sự nỗ lực vượt khó, tinh thần trách nhiệm và sáng tạo, tập thể lãnh đạo và CBCNV Viện Thuốc lá, đã cố gắng vươn lên để trở thành đơn vị hàng đầu về khoa học công nghệ của ngành thuốc lá trong nước. Điều này được chứng minh bằng các thành tựu của Viện trong nhiều mặt, từ công tác nghiên cứu khoa học cơ bản đến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu thuốc lá; từ thử nghiệm đến sản xuất quy mô lớn; từ đào tạo nhân lực chuyên môn sâu đến xây dựng được một cơ đồ khoa học rất uy tín. Ông Hồ Lê Nghĩa mong muốn trong thời gian tới Viện Thuốc lá tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của các đề tài nghiên cứu khoa học, đảm bảo tính ứng dụng và hiệu quả của các đề tài; Chú trọng đến việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao, xây dựng được đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành trong lĩnh vực thuốc lá; Triển khai các dự án đầu tư phòng phân tích Viện đảm bảo tiến độ, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Trong đó, đặc biệt cân nhắc xem xét đảm bảo tính hiệu quả của các dự án đầu tư...
Cũng tại buổi Lễ, Viện Thuốc lá cũng đã ra mắt Trụ sở mới, tọa lạc tại Ngõ 133 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội - đây là công trình trọng điểm của Viện và đã được lựa chọn là công trình chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam lần thứ 3 nhiệm kỳ 2020-2025. Bên cạnh việc đã hoàn thành xây dựng được Trụ sở mới khang trang, Viện Thuốc lá đang tiếp tục thực hiện dự án đầu tư mua sắm thiết bị nâng cấp Phòng Phân tích với các thiết bị hiện đại sẽ góp phần đưa Phòng phân tích trở thành một trung tâm thử nghiệm, kiểm định, giám định hàng đầu Việt Nam về lĩnh vực thuốc lá.
Gắn biển công trình chào mừng Đại hội Đại biểu Đảng bộ Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam - Trụ sở mới Viện Thuốc lá
Có thể nói năm 2020, là năm đặc biệt đối với Viện Thuốc lá với việc hoàn thành xây dựng Trụ sở làm việc mới khang trang sẽ là tiền đề để Viện có những bước phát triển tiếp theo, với nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh các hoạt động khoa học công nghệ, ứng dụng, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất, trên cơ sở 34 năm xây dựng và phát triển. định hướng phát triển của Viện Thuốc lá trong những năm tới đó là:
- Xây dựng Viện Thuốc lá thành một Doanh nghiệp KHCN vững mạnh trên cả hai lĩnh vực hoạt động NCKH và SXKD chủ yếu dựa vào các sản phẩm hình thành từ kết quả NCKH.
- Đến năm 2030, Viện Thuốc lá trở thành một tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về thuốc lá hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á.
- Đối với hoạt động KHCN: Hàng năm thực hiện ít nhất 15-16 đề tài KHCN các cấp, trong đó mỗi năm có ít nhất 3 kết quả KHCN được ứng dụng hoặc chuyển giao vào thực tế sản xuất.
- Đối với lĩnh vực SXKD: Giai đoạn 2020-2025, phấn đấu tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân 5%/năm, đến năm 2025 doanh thu đạt gần 300 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 5,5 tỷ đồng.
- Phát triển ổn định diện tích đầu tư trồng thuốc lá tại Cao Bằng ở mức 2.500 ha/vụ. Trong đó, diện tích sản xuất nguyên liệu thuốc lá đặc thù quy mô tối thiểu 500 ha/vụ; năng suất bình quân đạt 2,7 - 3 tấn/ha, tỷ lệ nguyên liệu cấp 1+2 và nguyên liệu chất lượng cao đạt trên 65%. Sản lượng nguyên liệu tiêu thụ đạt tối thiểu 4.500 tấn.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, Viện Thuốc lá xác định cần phải tập trung thực hiện các nhiệm vụ đó là tạo bước đột phá mới trong cách nghĩ, cách làm, mạnh dạn đầu tư thiết bị và công nghệ mới, nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV, củng cố bộ máy điều hành để thực hiện nhiệm vụ KHCN và sản xuất kinh doanh, xây dựng quy chế quản lý, quản trị doanh nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả, đảm bảo việc làm, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động, bảo toàn và phát triển vốn, hoàn thành tốt chế độ chính sách đối với nhà nước.